Người đóng góp
| Thời gian
| Những đóng góp
| Chú giải
|
Aristotle
| Năm 330 trước công nguyên
| Học thuyết 4 yếu tố: đất, không khí, lửa và nước.
| |
Antoine Lavoisier
| 1770 đến 1789
| Viết một danh sách tổng quát đầu tiên bao gồm 33 nguyên tố. Phân biệt và chia thành 2 loại: kim loại và phi kim
| Một vài nguyên tố của Lavoisier sau này được phát hiện là hợp chất hoặc hỗn hợp
|
Jons Jakob Berzelius
| Năm 1828
| Phát triển thêm bảng khối lượng các nguyên tố. Giới thiệu các chữ cái tượng trưng cho các nguyên tố.
| |
Johann Dobereliner
| Năm 1829
| Phát triển các nhóm gồm có ba nguyên tố với những tính chất tương tự nhau. Li, Na và Ka tạo thành một nhóm. Ca, Strongti và Ba tạo thành một nhóm. Cl, Br và Iốt tạo thành một nhóm.
| Báo trước sự ra đời các khái niệm, ý tưởng về nhóm.
|
John Newlands
| 1864
| Có sự hiểu biết nhiều hơn về các nguyên tố (hơn 60 nguyên tố) qua việc sắp xếp theo thứ tự về khối lượng và chú ý được sự giống nhau giữa nguyên tố 1 và 9, 2 và 10,... Ông đặt ra "Quy tắc bát tử".
| Quy tắc bát tử của Newlands đã xác định được nhiều sự giống nhau ở giữa các nguyên tố, nhưng không dự báo trước các nguyên tố chưa tìm thấy, vì ông đã không chừa chỗ trống cho các nguyên tố này. Vì vậy, có thể nói ông là người đã tiên đoán được khái niệm chu kì.
|
Lothar Meyer
| 1869
| Biên soạn bảng hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hóa học với 56 nguyên tố sắp xếp theo khối lượng nguyên tử.
| Meyer và Mendeleev cùng lúc đưa ra bảng hệ thống tuần hoàn của họ
|
Dimitri Mendeleev
| 1869
| Đưa ra bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học dựa trên khối lượng các nguyên tử nhưng sắp xếp “có tính chu kì” hơn khi các nguyên tố có cùng tính chất được đặt ngay phía dưới chất kia. Những nguyên tố chưa được tìm ra trong thời gian đó đã được để trống và những tính chất của nó được dự đoán trước (các nguyên tố như Gali, Scandi và Germani).
| Bảng tuần hoàn của Mendeleev có tầm quan trọng vì nó giúp dự đoán trước các tính chất của nguyên tố theo "định luật tuần hoàn": tính chất của các nguyên tố thay đổi tuần hoàn với khối lượng nguyên tử của chúng.
|
William Ramsay
| 1894
| Khám phá ra khí hiếm
| Năm 1894, Ramsay đã tách ra Oxi, Nito, nước và CO2 từ một mẫu không khí và khám phá ra có một khí nặng hơn Hidro 19 lần, không có phản ứng và phát ra một quang phổ chưa được biết đến. Ông gọi khí này là Argon. Năm 1895, ông khám phá ra Heli, là sản phẩm của sự phân rã Urani và có quang phổ phù hợp với quang phổ của một nguyên tố phát ra từ mặt trời được khám phá vào năm 1868 (Helios là vị thần mặt trời của Hi Lạp). Ông tiếp tục khám phá ra neon, krypton, xenon và qua đó khám phá ra sự hiện diện của một nhóm mới trong bảng Tuần hoàn. Ramsay nhận giả Nobel năm 1904.
|
Henry Mosele
| 1914
| Xác định được số nguyên tử của mỗi nguyên tố. Ông giúp định nghĩa thêm về định luật tuần hoàn: tính chất của các nguyên tố biến đổi tuần hoàn với số nguyên tử của chúng.
| Sự định nghĩa thêm của Moseley về Định luật tuần hoàn đã giải thích được cách sắp xếp của các nguyên tố Te và I, tương tự với Ar và Ka, Co và Ni.
|
Glenn Seaborg
| 1940
| Tổng hợp thêm các nguyên tố có tính phóng xạ (nguyên tố xếp sau Urani trong bảng tuần hoàn).
| Năm 1940, Urani được bắn phá bởi hạt nơtron trong máy gia tốc xyclotron và tạo ra Ne (Z=93). Pluto (Z= 94) được tạo ra từ Urani và đơteri (đồng vị của H). Những nguyên tố mới này là một phần của họ Actini trong bảng tuần hoàn. Seaborg nhận giải Nobel vào năm 1951 |